Trong hôn nhân, vấn đề về phân chia tài sản luôn bị xem là một vấn đề nhạy cảm, đặc biệt là tài sản có nguồn gốc từ cha mẹ hai bên tặng cho. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc các bên gặp khó khăn trong việc xác định tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng khi giải quyết vụ án ly hôn. Với câu hỏi đặt ra liệu rằng: Nhà đất do bố mẹ chồng/vợ tặng cho trong thời kỳ hôn nhân có được coi là tài sản chung không? Luật sư Thủ Đức giải đáp cụ thể trong bài viết này.
Trường hợp bố mẹ tặng cho riêng tài sản cho con

Cụ thể, trường hợp bố mẹ chồng/vợ tặng cho mà hợp đồng hoặc các giấy tờ về việc tặng cho chỉ ghi tặng cho riêng vợ/chồng, thì:
Căn cứ tại khoản 1 Điều 97 Luật đất đai 2013 quy định như sau:
“Điều 97. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được cấp cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất theo một loại mẫu thống nhất trong cả nước.”
Căn cứ tại Điều 44 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng:
“Điều 44. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản.
3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.
4. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.”.
Căn cứ các quy định nêu trên thì cơ quan có thẩm quyền chỉ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người có quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này, nếu trên hợp đồng tặng cho hoặc các giấy tờ về việc tặng cho chỉ ghi tên riêng của chồng/vợ thì mảnh đất trên được xác định là tặng cho riêng người chồng/vợ. Do vậy, mảnh đất trên sẽ là tài sản riêng của chồng/vợ và được xem là tài sản riêng của vợ/chồng trong thời kỳ hôn nhân. Do đó việc khi có tranh chấp ly hôn dẫn đến chia tài sản nhà đất trên sẽ không được gộp vào khối tài sản chung để phân chia.
Trường hợp bố mẹ tặng cho chung cả hai vợ chồng tài sản
Cụ thể, trường hợp bố mẹ chồng/vợ tặng cho mà hợp đồng hoặc các giấy tờ về việc tặng cho ghi tặng cho 02 vợ chồng
Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nhà đất mà bố, mẹ chồng/vợ tặng cho sau kết hôn là tài sản chung khi:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.”
Theo quy định này thì tài sản được bố mẹ tặng cho riêng vợ, chồng sau khi kết hôn thì được xác định là tài sản riêng của vợ, chồng. Vợ, chồng có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, quyết định nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
Do đó nhà đất được ba, mẹ của chồng/vợ cho trong trường hợp này là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và trường hợp có phát trinh tranh về phân chia tài sản khi ly hôn, nhà đất được bố mẹ chồng/vợ tặng cho trường trường hợp này sẽ được gộp vào khối tài sản chung để phân chia.
Mọi thắc mắc chi tiết về tài sản trong thời kỳ hôn nhân Quý khách hàng vui truy cập Luật sư Thủ Đức hoặc liên hệ qua số điện thoại 0918 22 99 88 để được tư vấn nhanh nhất!