telegram
whatsapp
call
zalo
chat

Quy định về tuyên bố một người đã chết

Một người như thế nào được xem là đã chết? Quy định của pháp luật như thế nào về tuyên bố một người đã chết? Hãy cùng Luật sư Thủ Đức tìm hiểu qua bài đăng dưới đây.

1. Các trường hợp bị tuyên bố chết

Một người bị tuyên bố chết khi thuộc các trường hợp:

– Tiếp tục biệt tích sau 03, kể từ ngày đã được tuyên bố mất tích;

– Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc;

– Biệt tích trong thiên tai, thảm họa sau 02 năm, kể từ ngày thiên tai, thảm họa chấm dứt (trừ trường họp pháp luật có quy định khác);

– Biệt tích 05 năm liền trở lên. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, ngày chết của cá nhân được xác định trong quyết định của Tòa án.

2. Quy định về tuyên bố một người đã chết

2.1 Điều kiện để tuyên bố chết đối với cá nhân.

Một là, đã quá thời hạn nhất định mà cá nhân đó vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. Theo điều kiện này, tòa án chỉ có thể tuyên bố chết đối với cá nhân nếu qua thời hạn luật định mà họ vẫn không có tin tức là còn sống. Thời hạn đó được xác định cụ thể vào từng trường hợp theo quy định tại Khoản 1, Điều 71, cụ thể:

– Nếu tuyên bố là đã chết đối với người đã qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải quá thời hạn là ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực pháp luật.

– Nếu tuyên bố là đã chết đối với người chưa qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải trải qua thời hạn là năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc (nếu người đó biệt tích trong chiến tranh) hoặc sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt (nếu người đó bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai).

– Nếu tuyên bố là đã chết đối với người biệt tích lâu ngày mà chưa qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải qua thời hạn hạn là năm năm, tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

Hai là, phải thông qua thủ tục thông báo tìm kiếm.

Điều kiện này không được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, tuy nhiên xuất phát từ điều kiện tuyên bố một người mất tích thì việc thông báo tìm kiếm đối với người có khả năng được tuyên bố đã chết là hoàn toàn hợp lí, việc thông báo tìm kiếm với mục đích nhằm xác định lại lần cuối cùng về tin tức còn sống của một người trước khi tòa án quyết định về thận phận pháp lú của họ.

Ba là, phải có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Đây là những cá nhân có sự ràng buộc trong mối quan hệ nào đó như hôn nhân gia đình, hành chính, lao động,… với người mà sự vắng mặt của người đó làm ảnh hưởng tới quyền lợi của họ. Ví dụ như vợ yêu cầu tòa án tuyên bố chồng đã chết để thực hiện các thủ tục pháp lý về thừa kế.

2.2. Xác định ngày chết của người bị tuyên bố đã chết.

Việc xác định ngày chết là hết sức quan trọng, là cơ sở để xác định ngày mở thừa kế. Là ngày để xác định các quan hệ khác mà người đó tham gia được coi là chấm dứt. Việc xác định ngày chết được quy định tại Khoản 2, Điều 71 Bộ luật dân sự:

“Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.”

Theo quy định này, ngày chết của người bị tuyên bố đã chết được xác định khá linh hoạt. Phụ thuộc vào sự kiện thực tế và thời hạn tuyên bố một một người đã chết để quyết định. Trường hợp không xác định được thì ngày quyết định có hiệu lực được xác định là ngày chết.

2.3. Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố đã chết.

Quyết định của Tòa có hiệu lực, quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giải quyết như người chết. Tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế. Như vậy, việc tuyên bố một người đã chết đã làm phát sinh tất cả hậu quả pháp lý về nhân thân, tài sản của người đó như đối với người đã chết theo quan niệm thông thường.

2.4. Thủ tục yêu cầu và quyết định tuyên bố một người đã chết.

Quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người đã chết được quy định như sau:

Người có quyền, lợi ích liên quan gửi đơn yêu cầu kèm tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết. Tòa ra quyết định thông báo tìm kiếm thông tin về người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết. Trong vòng 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn thông báo Tòa phải mở phiên họp xét đơn.

Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết. Trong quyết định này, Tòa phải xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý. Quyết định phải được gửi cho UBND cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, hãy liên hệ với chúng tôi để được đội ngũ Luật sư giỏi tư vấn.

Categories: Tư Vấn Pháp Luật

Tags: ,

Leave A Reply

Your email address will not be published.